Giáo dục
Hệ thống giáo dục thuộc về trách nhiệm của từng tiểu bang nhưng được phối hợp qua hội nghị liên bang của các bộ trưởng văn hóa.
Tùy theo tiểu bang, tất cả trẻ em đều có nghĩa vụ phải học từ 9 đến 12 năm. Trong khi ở một số bang chương trình phổ thông chỉ kéo dài 12 năm, thì ở các bang khác tới những 13 năm. Sau khi tốt nghiệp bậc trung học (lớp 10), thanh niên ở Đức có nhiều sự lựa chọn. Họ có thể học nghề ở các trường dạy nghề, hay học hết phổ thông để lấy bằng Abitur (tương đương với bằng tốt nghiệp phổ thông ở Việt Nam). Sau Abitur họ có thể chọn học tiếp ở trường đại học (Universität hay Hochschule) hay trường đại học thực hành (Fachhochschule). Chỉ trong những trường hợp đặc biệt bằng tốt nghiệp của trường đại học thực hành (FH-Diplom) mới có khả năng được công nhận để tiếp tục làm luận án phó tiến sĩ tại các trường đại học. Ngược lại bằng cao học (master) của một trường đại học thực hành về cơ bản cho phép được tiếp tục làm bằng phó tiến sĩ. Trong thời gian gần đây, hệ thống giáo dục của Đức bị OECD chỉ trích rất nhiều. Mặc dù những thiếu sót và sai lầm trong hệ thống này đã được nhận rõ nhưng vẫn chưa có biện pháp sửa chữa.
Văn học
Văn học tiếng Đức có từ thời kỳ Trung cổ với các tác giả như Walther von der Vogelweide và Wolfram von Eschenbach. Bài ca Nibelung (tác giả vô danh) cũng là một đóng góp quan trọng trong văn học Đức. Vào thời kỳ cận đại, với những công tích của Quốc vương Friedrich II Đại Đế đưa một nước Phổ dân tộc Đức trở nên phú cường, văn học Phổ trở nên phát triển, xóa tan những cản trở giữa Vương Quốc Phổ và các quốc gia Đức khác trong Đế quốc La Mã Thần Thánh.[91][102] Các tác giả Đức được coi là quan trọng nhất bao gồm Johann Wolfgang von Goethe và Friedrich Schiller cũng như Heinrich Heine và Anh em nhà Grimm; trong thế kỷ 20 là những người đoạt Giải thưởng Nobel về văn học Thomas Mann (1929), Hermann Hesse (1946), Heinrich Böll (1972) và Günter Grass (1999).[103] Các tác giả có tầm quan trọng khác là Bertolt Brecht và Hans Magnus Enzensberger. Nước Đức là quê hương của nhiều nhà tư tưởng và triết học kiệt xuất như Gottfried Wilhelm Leibniz, Immanuel Kant, Georg Wilhelm Friedrich Hegel, Karl Marx, Friedrich Engels, Arthur Schopenhauer, Friedrich Nietzsche và Martin Heidegger.
Hội họa
Trong số những nghệ sĩ Đức quan trọng nhất trong thời kỳ Phục Hưng phải kể đến Albrecht Altdorfer, Lucas Cranach người cao tuổi, Matthias Grünewald và người nổi tiếng nhất của thời đấy là Albrecht Dürer. Những nghệ sĩ khác có tiếng trên thế giới là Caspar David Friedrich của thời kỳ Lãng mạn, nhà họa sĩ Siêu thực Max Ernst và Joseph Beuys.
Âm nhạc
Trong lãnh vực âm nhạc nước Đức sản sinh ra rất nhiều nhà soạn nhạc có tiếng trên thế giới mà nổi tiếng nhất là Johann Sebastian Bach và Ludwig van Beethoven. Những nhà soạn nhạc khác có tầm cỡ thế giới là Johannes Brahms, Johann Jakob Froberger, Christoph Willibald Gluck, George Frideric Handel, E.T.A. Hoffmann, Felix Mendelssohn, Johann Pachelbel, Johann Joachim Quantz, Max Reger, Heinrich Schütz, Robert Schumann, Richard Strauss, Georg Philipp Telemann, Richard Wagner, Carl Maria von Weber, Karl Friedrich Abel, Carl Philipp Emanuel Bach, Johann Christian Bach.
Đức là một quốc gia có nền âm nhạc hiện đại thuộc vào hàng sống động và đa dạng nhất châu Âu, nhưng nhạc viết bằng tiếng Đức thì lại không có thị trường lớn bên ngoài lãnh thổ các nước nói tiếng này (Đức, Áo, Thụy Sĩ). Các nghệ sĩ Đức nổi tiếng thế giới thường sáng tác nhạc bằng tiếng Anh, tiêu biểu như nhóm pop Modern Talking hay nhóm power-metal Helloween. Ngoại lệ có nhóm nhạc “metal nhảy” (Tanz-metal) Rammstein – các bài hát của nhóm từ 1995 đến nay phần lớn được sáng tác bằng tiếng Đức và là “hàng xuất khẩu” chính của làng nhạc tiếng Đức ra nước ngoài.
Khoa học
Nước Đức đã và vẫn là quê hương của nhiều nhà nghiên cứu quan trọng trong tất cả các lĩnh vực khoa học. Albert Einstein và Max Planck đã xây dựng các cột trụ quan trọng nhất trong ngành vật lý hiện đại mà đã được Werner Heisenberg và Max Born tiếp tục phát triển. Trước đấy là đóng góp của những nhà vật lý học như Hermann von Helmholtz, Joseph von Fraunhofer, Daniel Gabriel Fahrenheit hay Johannes Kepler. Wilhelm Conrad Röntgen khám phá và nghiên cứu về tia sóng mang tên ông: tia Röntgen. Heinrich Rudolf Hertz viết nhiều công trình quan trọng về bức xạ điện từ. Hóa học đã được phong phú hóa bởi Otto Hahn, Justus von Liebig và Robert Bunsen. Cùng với những phát minh thành công của họ những tên tuổi như Johannes Gutenberg, Nikolaus August Otto, Werner von Siemens, Wernher von Braun, Gottlieb Daimler, Carl Benz, Rudolf Diesel đã đi vào trong ngôn ngữ của cuộc sống hằng ngày. Nhiều nhà toán học ra đời tại Đức như Carl Friedrich Gauß, David Hilbert, Carl Gustav Jacob Jacobi, Felix Klein, Bernhard Riemann và Karl Weierstraß.
Những ngày lễ Phần lớn các ngày lễ ở Đức đều bắt nguồn từ các ngày lễ của giáo hội giống như lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh. Trong khi ngày quốc khánh và ngày 1/5 được quy định rõ trong luật liên bang là ngày lễ của toàn quốc, thì những ngày lễ còn lại đều do luật của mỗi tiểu bang tự quy định riêng. Ví dụ, trong khi những người ở Bayern được nghỉ lễ thì những người sống ở Berlin vẫn phải đi làm bình thường.
Thể thao
Borussia Dortmund đối đầu Schalke trong Bundesliga Môn thể thao được yêu thích nhất ở Đức là bóng đá. Giải vô địch bóng đá thế giới năm 2006 được tổ chức tại Đức. Câu lạc bộ bóng đá nổi tiếng nhất của Đức là đội FC Bayern München (tiếng Anh: Bayern Munich) ở tiểu bang Bayern (tiếng Anh: Bavaria). Ngoài bóng đá ra thì môn thể thao được khán giả truyền hình xem nhiều nhất là môn đua xe Công thức 1 (Formula One). Trong thời gian gần đây, bóng rổ ngày càng được yêu chuộng nhiều hơn trong lớp trẻ, tuy nhiên số lượng khán giả theo dõi môn này trên truyền hình vẫn kém xa môn đua xe. Ngoài ra môn bóng ném và khúc côn cầu trên băng cũng được nhiều người yêu thích
Nguồn : wikipedia
ĐẶC ĐIỂM VÀ MỘT SỐ LOÀI ĐẶC TRƯNG
Các hệ thực vật và động vật của Đức Nó được tìm thấy trong các khu rừng, chiếm chỉ hơn 30% của đất nước. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, những khu rừng nguyên sinh đã bị phá hủy để làm nhiên liệu.
Những cây hiện đang được trồng bởi con người và hầu hết được sử dụng cho lâm nghiệp.
60% các khu rừng này bao gồm thông và các loài cây lá kim khác. 40% còn lại bao gồm sồi, sồi, bạch dương và quả óc chó.
Một trong những cây được khai thác nhiều nhất ở Đức là cây nho, cây trồng chiếm các sườn sông.
Hệ động vật của Đức khan hiếm và ít thay đổi. Điều này một phần là do khí hậu, và cũng do cuộc chiến nói trên, trong đó nhiều loài đã bị tàn phá.
HỆ THỰC VẬT
Nước Đức nằm ở vùng khí hậu ôn hòa. Do vậy, hệ thực vật được đặc trưng bằng những rừng cây lá rộng và lá kim. Sự khác biệt về các đặc điểm địa hình, khí hậu theo từng khu vực tạo nên một hệ thực vật phong phú và đa dạng. Hệ thực vật tự nhiên từ tây sang đông đánh dấu quá trình thay đổi của khí hậu: Từ khí hậu đại dương phía tây sang khí hậu lục địa. Loại cây chủ yếu trong các rừng cây lá rộng là cây dẻ gai đỏ. Bên cạnh đó, những khu rừng ngập nước cạnh sông hồ(ngày càng ít dần) và rừng hỗn hợp các loại cây sồi, dẻ gai cũng là những loại rừng đặc trưng.
Hoa ngô
Nó có nguồn gốc từ các thung lũng của đất nước này. Hoa ngô là quốc hoa của Đức, nơi nó cũng lấy tên là nút vàng.
Màu xanh dương
Nó cũng được gọi là hoa ngô. Nó không được hưởng danh tiếng tốt vì đó là bông hoa được quân đội Đức Quốc xã chọn làm biểu tượng.
Nó là một loại cây lâu năm mọc trong rừng mở và đất cát. Nó có hoa màu xanh rất đẹp.
Hoa tulip
Nó là một loại cây từ Anatolia. Ở Đức nó được đánh giá cao bởi những người trồng hoa. Vào thế kỷ 17, những bóng đèn tulip hiếm nhất có giá của cả một trang trại.
Rosa osiria
Cây này có nguồn gốc từ Đức. Nó là một loạt các vết cắt và hoa của nó kéo dài vài ngày.
Cánh hoa của những bông hoa này có màu trắng ở bên ngoài và màu đỏ burgundy bên trong mượt mà. Giống như hầu hết các loại hoa hồng, chúng có mùi hương tinh tế.
Lily của thung lũng
Nó có nguồn gốc từ Thung lũng Röhn, ở Bavaria. Những bông hoa nhỏ, hình chuông và thơm. Ở Đức, chúng được gọi là chuông tháng năm.
Hoa cúc Đức
Đó là một loại cây mọc hoang khắp cả nước. Những cánh hoa của hoa rất quý giá cho việc pha chế trà thảo dược.
HỆ ĐỘNG VẬT
Liệt kê các tài nguyên thiên nhiên khác nhau của Đức, điều đáng nói là các đại diện của hệ động vật. Các lãnh thổ của Đức không khác nhau bởi nhiều loại động vật kỳ lạ, tuy nhiên ở đây chúng có thể được đáp ứng khá nhiều. Ví dụ, phổ biến nhất là sóc, cáo và lợn đực. Thường thì bạn có thể thấy hươu nai, hươu hoang và hươu nai. Có thỏ, động vật gặm nhấm và thỏ rừng, cũng như nhiều loài chim trong rừng. Trong các lãnh thổ của đồng cỏ núi cao sống trong sự phong phú. Otters đã có rất nhiều trước đây, nhưng ô nhiễm nước làm giảm dân số hàng năm. Tại bờ biển ẩm ướt của biển Baltic và Bắc, các loài chim phổ biến nhất là vịt và ngỗng. Ở đây bạn thường có thể nhìn thấy một con cò làm tổ trên mái nhà.
Heo rừng châu Âu
Sự phân bố của loài này đã đi từ Pháp đến Nga. Xung đột vũ trang tàn phá với con lợn lòi này.
Heo rừng châu Âu phục vụ như thức ăn cho dân cư. Hôm nay nó đang trong tình trạng phục hồi ở một số khu rừng.
Gấu nâu
Loài động vật có vú tuyệt vời này gần như tuyệt chủng từ rừng Đức. Nó đang được giới thiệu lại từ Ba Lan.
Cáo châu Âu
Cáo phổ biến nhất là phong phú nhất trong các khu rừng lá kim Đức. Nó cũng được gọi là cáo đỏ.
Anh ta là một thợ săn về đêm khéo léo và vào ban ngày anh ta vẫn ẩn mình trong hang.
Đại bàng hoàng gia
Nó hiện đang ở khu vực miền núi của Bavaria. Đại bàng vàng được một số đế chế lấy làm biểu tượng quyền lực. Một trong số đó là Đế quốc Napoleon của Pháp.
Ông cũng được chọn cho cờ Đức quốc xã như một con đại bàng hoàng gia. Ngoài ra, nó là biểu tượng trong lá cờ của Mexico.
Cá trích
Từ thời xa xưa, cá trích đã là loài cá quốc gia của Đức. Đến nỗi, trong ẩm thực, món cá trích luôn có tên tiếng Đức.
Du lịch
Nước Đức có rất nhiều phong cảnh đẹp để chiêm ngưỡng. Bạn có thể trượt tuyết tại các vùng núi thuộc dãy Alps, nơi mà hầu như tuyết phủ quanh năm. Bạn cũng có thể đi du lịch dạo quanh một số thành phố du lịch nổi tiếng của Đức như Berlin, Frankfurt…
Các thành phố du lịch nổi tiếng
Berlin và Potsdam
Berlin là thủ đô và là thành phố lớn nhất nước Đức. Ở đây có nhiều nơi để du lịch. Bạn có thể tham quan nhiều địa danh nổi tiếng, trong đó có bức tường Berlin, hay cổng Brandenburg, quảng trường Potsdamer Platz.
Thủ đô Berlin cũng có cung vua của nước Phổ vào thế kỷ thứ XVIII. Bên ngoài Berlin, thành phố Potsdam cũng có thắng cảnh nổi tiếng là điện Vô Ưu, được vua Friedrich II Đại Đế dựng xây vào năm 1744 sau khi thắng trận trở về, để làm nơi sinh sống tĩnh lặng.Sau đây là ảnh một số thắng cảnh trên toàn nước Đức:

Tòa thị chính Breman

Điện Vô Ưu

cổng thành Brandenburg

Dresden

baden-wurttemberg

Linderhof
Ẩm thực
Ẩm thực ở Đức rất đa dạng và thay đổi tùy theo vùng. Ẩm thực Đức nổi tiếng trước tiên là các món ăn “nặng” như giò heo luộc với bắp cải ngâm chua (Sauerkraut). Ở phía nam người ta còn dùng nhiều mì sợi các loại. Các món ăn đặc sản còn có xúc xích trắng (Weißwurst) ở Bayern hay bao tử heo (Saumagen) ở vùng Pfalz. Ngoài ra người Đức rất yêu thích bia (cũng khác nhau tùy theo vùng) và rượu vang. Vì theo điều kiện khí hậu nên trồng và uống rượu vang phổ biến ở phía tây và Nam của Đức nhiều hơn là ở phía bắc và Đông.
Ở Đức có trên 200 loại Wurst, tức là xúc xích làm từ thịt bê, thịt lợn, óc heo, mù tạc, gia vị và bột cà ri. Mỗi vùng lại có một loại xúc xích riêng của mình, từ loại xúc xích trắng của Bavaria với rau mùi tây và hành cho đến xúc xích Chipolata nướng trên than hồng.
Có rất nhiều loại bánh mì khác nhau được phục vụ tại các nhà hàng và có thể mua hàng ngày ở các cửa hàng bánh. Nhiều người thích loại bánh mì Pumpernickel nhiều hương vị làm bằng lúa mạch đen, hơi có chút vị đắng sau khi ăn.
Ở một số vùng, nhất là Baden-Wüttermberg, Moselle, Frankfurt và Bavaria, người ta đặc biệt quan tâm đến chất lượng thực phẩm. Đây cũng là những vùng sản xuất rượu vang. Những đặc sản địa phương ở đây gồm có lươn, xúp mận và rau, cá lục tươi ở Hamburg; món Hoppel Poppel, trứng ốp lết với khoai tây và thịt xông khói ở Berlin; heo sữa và giò heo quay ở Bavaria; thịt xông khói ăn với bánh mì Pumpernickel ở Westphalia; cá luộc hoặc chiên có phủ vụn bánh mì, đặc biệt là cá trê sông Donau gần Passau; xúc xích đủ các kiểu ở Nürnberg; nước xốt rau xanh với thịt heo bằm hoặc thịt bò ở Frankfur
Vị trí tọa độ và biên giới
Nước Đức nằm trong Trung Âu, giữa 47°16′15″ và 55°03′33″ vĩ độ bắc và 5°52′01″ và 15°02′37″ kinh độ đông. Về phía bắc Đức có ranh giới với Đan Mạch (có chiều dài 67 km), về phía đông-bắc là Ba Lan (442 km), về phía đông là Séc 811 km), về phía đông nam là Áo (815 km không kể ranh giới trên hồ Bodensee), về phía nam là Thụy Sĩ (316 km, với biên giới của lãnh thổ bên ngoài (tiếng Anh: exclave) Büsingen nhưng không kể ranh giới trên hồ Bodensee), về phía tây nam là Pháp (448 km), về phía tây là Luxembourg (135 km) và Bỉ (156 km) và về phía tây bắc là Hà Lan (567 km).[18] Chiều dài ranh giới tổng cộng là 3.757 km. Trong khi ở phía tây-Bắc bờ biển của biển Bắc và ở phía đông-Bắc là biển Baltic tạo thành biên giới quốc gia tự nhiên thì về phía nam nước Đức là một phần của dãy núi Alpen.
Lãnh thổ bên ngoài duy nhất của Đức là Büsingen nằm trong vùng thượng lưu sông Rhein thuộc về huyện Konstanz của bang Baden-Württemberg. Büsingen có diện tích là 7,62 km² và được bao bọc hoàn toàn bởi 3 bang là Schaffhausen, Thurgau và Zürich. Ngoài ra còn có Kleinwalsertal thuộc Áo và nếu bằng đường bộ hay bằng đường thủy thì chỉ xuyên qua lãnh thổ quốc gia Đức mới có thể đến được.
Theo Sách thống kê hằng năm Đức (Statistisches Jahrbuch Deutschland – thời điểm năm 2000) điểm trung tâm về địa lý của Đức nằm trong làng Niederdorla thuộc bang Thüringen, giữa đoạn đường từ Erfurt đến Göttingen, trên 51°09´54´´ vĩ độ bắc và 10°27´19´´ kinh độ đông.

Nước Đức có vị trí địa lý nằm ngay trung tâm của châu Âu
Điểm cực bắc của Đức nằm trên bán đảo Elenbogen thuộc đảo Sylt, điểm cực bắc trên đất liền của quốc gia nằm trên bờ biển tây của bang Schleswig-Holstein tại Rickelsbüller Koog, điểm cực nam là Haldenwanger Eck nằm về phía nam của Oberstdorf (Bayern) trên núi Alpen. Từ Ellenbogen đến Haldenwanger Eck là khoảng 886 km (đường chim bay).
Điểm cực tây của Đức nằm trong bang Nordrhein-Westfalen, không xa Isenbruch (là địa danh cực tây của quốc gia), điểm cực đông nằm giữa Neißeaue-Deschka (làng cực đông của quốc gia) và Neißeaue-Zentendorf trong một vòng cung của sông Neiße. Từ Isenbruch đến vòng cung này của sông Neiße gần Zentendorf là tròn 636 km (đường chim bay).
Địa hình
Bản đồ địa hình nước Đức
Địa hình thay đổi đặc biệt là theo hướng từ Bắc vào Nam vì địa thế có chiều hướng cao hơn và dốc hơn về phía nam. Phần miền Bắc của nước Đức, vùng đồng bằng Bắc Đức, là một vùng đồng bằng mà phần lớn được tạo thành từ thời kỳ Băng hà, kế tiếp về phía nam là vùng đồi núi có rừng ở trung tâm và các phần đất miền Nam của Đức. Đặc biệt là tại bang Bayern nhưng cũng ở tại bang Baden-Württemberg địa hình này chuyển tiếp đến vùng Alpenvorland Bắc tương đối cao, vùng mà sau đấy lại chuyển tiếp đến vùng núi cao của dãy núi Alpen.
Sông ngòi

Sông Rhein- dòng sông nổi tiếng nhất ở Đức
Nước Đức giáp biển Bắc tại các bang Niedersachsen và Schleswig-Holstein. Đây là một biển nằm trên thềm lục địa thuộc Đại Tây Dương. Cùng với eo biển Manche, vùng phía nam của biển Bắc là vùng biển có mật độ giao thông cao nhất thế giới. Các bang Mecklenburg-Vorpommern và Schleswig-Holstein nằm cạnh biển Baltic, là một biển nội địa được nối liền với biển Bắc qua eo biển Skagerrak. Độ thay đổi thủy triều ở biển Baltic ít hơn ở biển Bắc rất nhiều.
Những sông chính là các sông Rhein, Donau, Elbe, Oder, Weser và Ems. Dài nhất trong các sông này là sông Donau (tiếng Anh: Danube). Với 2.845 km từ nơi giao lưu của hai sông Brigach và Breg và là nguồn của sông Donau tại Donaueschingen hay với 2.888 km từ nguồn của sông Breg tại vùng ranh của Rừng Đen (Schwazwald) sông Donau là sông dài thứ nhì trong châu Âu sau sông Volga. Thế nhưng chỉ một phần nhỏ của toàn bộ đoạn đường của sông Donau là chảy qua Đức (47 km). Sông Donau đổ ra biển Đen.
Tất cả những sông Đức khác chảy ra biển Bắc hay biển Baltic. Đường phân thủy châu Âu qua nước Đức chạy về phía đông của vùng đồng bằng thượng lưu sông Rhein trên chỏm núi chính của vùng Rừng Đen. Trong những sông này sông Rhein chính là con sông có đoạn đường dài nhất trong nước Đức. Trong số 1.320 km đường sông có 865 km nằm trong nước Đức. Thêm vào đó sông này còn có một vai trò tạo cá tính riêng cho người Đức, được kết tụ từ lịch sử và nhiều thần thoại cũng như truyền thuyết. Chức năng kinh tế của con sông này cũng rất quan trọng: sông Rhein là một trong những đường thủy có mật độ giao thông nhiều nhất châu Âu.
Sông Elbe bắt nguồn từ Riesengebirge (tiếng Séc: Krkonoše) tại biên giới của Séc và Ba Lan và đổ ra biển Bắc tại Cuxhaven sau khoản 1.165 km, trong đó là 725 km nằm trong nước Đức. Đã có thời gian sông này là một trong những sông bị ô nhiễm chất độc hại nhiều nhất châu Âu, nhưng trong thời gian gần đây chất lượng nước đã tốt hơn rõ rệt.
Nguồn sông Oder nằm tại Beskiden (tiếng Séc: Beskydy) của Séc. Sau vài ki lô mét sông Oder chảy sang Ba Lan và trung lưu của nó chạy qua Schlesien (tiếng Ba Lan: Śląsk, tiếng Séc: Slezsko). Hạ lưu sông này tạo thành biên giới Đức-Ba Lan để rồi lại đổ vào vùng nước đông Stettin trong lãnh thổ Ba Lan. Qua eo biển Świna dòng sông này chảy qua giữa các đảo Usedom và Wollin đổ vào biển Baltic.
Các hồ trong nước Đức phần lớn thành hình sau khi thời kỳ Băng hà chấm dứt. Do vậy mà đa số các hồ lớn nằm trong các vùng đã từng bị băng tuyết bao phủ hay vùng đất cạnh trước đó, đặc biệt là tại Mecklenburg và Alpenvorland. Hồ lớn nhất có phần thuộc Đức là Bodensee, hồ cũng là biên giới của Áo và Thụy Sĩ. Hồ lớn nhất hoàn toàn thuộc về lãnh thổ quốc gia của Đức là Müritz.
Núi và vùng thấp

Zugspitze-Ngọn núi cao nhất nước Đức
Núi Alpen là dãy núi cao duy nhất mà một phần thuộc về nước Đức. Tại đấy là ngọn Zugspitze (2.962 m), ngọn núi cao nhất Đức. Vùng núi với độ cao trung bình có khuynh hướng cao dần và rộng ra từ Bắc xuống Nam. Ngọn núi cao nhất ở đấy là Feldberg trong vùng Rừng Đen (Schwarzwald) với 1.493 m, kế tiếp là Arber Lớn (Große Arber) trong Rừng Bayern (Bayerischer Wald) với 1.456 m. Ngoài ra, có các ngọn núi trên 1.000 m là các vùng Erzgebirge, Fichtelgebirge, Schwäbische Alb và trường hợp đặc biệt là Harz bị cô lập hẳn như là vùng đồi núi ở về phía bắc nhiều nhất trong các vùng đồi núi của nước Đức với ngọn Brocken nhô cao đến 1.142 m. Về phía bắc của đợt đồi núi này chỉ còn một vài thành hệ địa chất cao hơn 100 m, trong số đó có Hagelberg trong Fläming với 200 m là ngọn cao nhất.
Địa điểm thấp nhất vẫn còn có thể đi được của Đức nằm dưới mực nước biển 3,54 m trong một vùng trũng gần Neuendorf-Sachsenbande trong Wilstermarsch (bang Schlewig-Holstein). Cũng nằm trong bang này là điểm thấp nhất với 39,10 m dưới mực nước biển nằm ở đáy của hồ Hemmelsdorf về phía bắc-đông bắc của Lübeck. Điểm nhân tạo thấp nhất với 293 m dưới mực nước biển nằm ở đáy của mỏ lộ thiên Hambach về phía đông của Jülich trong bang Nordrhein-Westfalen.
Đảo

Rugen- Nơi được mệnh danh là “Hòn đảo thiên đường” của nước Đức
So với chiều dài bờ biển thì Đức có một số lượng đảo đáng kể. Các đảo này trong biển Bắc phần lớn nằm trong dạng hình chuỗi trước đất liền. Chúng được chia ra thành các đảo bắc Friesen và đông Friesen, là một phần của bãi bồi Wattenmeer Đức. Các đảo bắc Friesen của Đức thuộc bang Schleswig-Holstein và bao gồm các đảo lớn Sylt, Föhr, Amrum và Pellworm cũng như là các đảo Hallig nhỏ hơn rất nhiều. Từ khi đắp đập Beltringharder Koog thì Nordrand đã trở thành một bán đảo. Các đảo đông Friesen thuộc bang Niedersachsen có độ lớn tương tự. Các đảo này hình thành từ những bãi cát bồi do tác động của sóng biển. Lớn nhất trong các đảo này là Borkum. Một trường hợp ngoại lệ là đảo Helgoland nằm ngoài khơi xa của biển Bắc.
Các đảo trong biển Baltic nằm gần bờ biển Bodden của Đức có chiều hướng lớn hơn và có địa hình thay đổi nhiều hơn. Đảo lớn nhất trong các đảo này và đồng thời cũng là hòn đảo lớn nhất của Đức là Rügen, tiếp theo đó là Usedom mà đầu mũi đảo về phía đông đã thuộc về Ba Lan. Cũng như các đảo trên biển Bắc, các đảo của biển Baltic là điểm đến du lịch được ưa thích.
Trong một số sông hồ nội địa Đức cũng có đảo mà trong đó được biết đến nhiều nhất là Mainau và Reichenau trên Bodensee cũng như là Herrenchiemsee trên Chiemsee.
Khí hậu
Nước Đức thuộc về vùng khí hậu ôn hòa Trung Âu, trong khu vực của vùng gió Tây và nằm trong khu vực chuyển tiếp giữa khí hậu biển trong Tây Âu và khí hậu lục địa trong Đông Âu. Ngoài những yếu tố khác, khí hậu chịu ảnh hưởng của dòng hải lưu Golfstream tạo nên những trị khí hậu ấm áp khác thường so với vị trí vĩ độ này.
Điều kiện thời tiết khắt nghiệt như hạn hán kéo dài, gió xoáy (Tornado), băng giá lạnh với nhiệt độ cực thấp hay nóng cao độ tương đối hiếm. Thế nhưng thỉnh thoảng vẫn xuất hiện giông bão mà đã gây ra nhiều thiệt hại nặng như trong năm 2000 và 2002. Tại Đức cũng thường hay xảy ra nước lũ sau thời gian mưa nhiều trong mùa hè (lũ lụt Oder năm 1997, lũ lụt Elbe năm 2002) hay sau khi tan tuyết trong mùa đông mà có thể dẫn đến lụt và gây tàn phá nặng. Việc hay có nước lũ tại sông Rhein có thể là do việc đắp đập và đào thẳng sông Rhein trong thế kỷ 19 dưới sự lãnh đạo của Tulla đã xóa bỏ các vùng ngập nước tự nhiên trước kia của con sông này. Hạn hán chủ yếu chỉ xảy ra ở vùng đông bắc nước Đức nhưng đôi lúc cũng ảnh hưởng đến trên toàn nước Đức như lần cuối cùng là trong đợt nóng năm 2003.
Nguồn: wikipedia
Tổng quan kinh tế nước Đức
Xe hơi Mercedes-Benz.
Đức là nước xuất khẩu hàng hóa đứng đầu thế giới từ 2003 tới 2008.
Với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hơn 2.271 tỷ Euro, Đức là nước có nền kinh tế lớn nhất châu Âu và lớn thứ năm trên thế giới sau Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản. Đức cũng là nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu, hơn cả Mỹ và Trung Quốc.
Các bạn hàng chính là Pháp, Mỹ, Anh, Ý và Hà Lan. Ngoài ra, Đức còn là bạn hàng lớn nhất của hầu hết các nước châu Âu. Với tư cách là một cường quốc hàng đầu trong Liên minh châu Âu, nước Đức đang phấn đấu cho một sự thống nhất kinh tế chặt chẽ hơn của châu lục này.
Hơn một nửa năng lực công nghiệp của nước Đức đã bị phá huỷ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ở Đông Đức, kinh tế phát triển rất chậm chạp. Còn Tây Đức đã trải qua giai đoạn phát triển kinh tế thần kỳ trong những năm 1950. Kết quả là nền kinh tế Tây Đức bước vào thời ổn định, nạn thất nghiệp được thanh toán vào năm 1959. Vào cuối thập niên 1950, sản xuất công nghiệp tăng 130%. Có một số nhân tố góp phần vào sự thành công này. Kế hoạch Marshall do Mỹ khởi xướng đã bơm một lượng viện trợ rất cần thiết trong suốt thời kỳ tái thiết. Một cuộc cải cách tiền tệ mạnh dạn đã khôi phục lại giá trị đồng tiền và chống được lạm phát. Chế độ kiểm soát giá cả và tiền lương bị huỷ bỏ. Cơ sở hạ tầng được phục hồi và cuộc chiến Triều Tiên những năm 1950 đã làm gia tăng nhu cầu đối với các hàng hóa của Đức.
Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế thần kỳ của Đức đã bị suy giảm trong những năm 1990, do ảnh hưởng của sự suy thoái toàn cầu và do những chi phí rất lớn để sắp xếp lại dân cư và những ngành công nghiệp không hiệu quả của Đông Đức cũ.
Thương mại
Tổng mức bán buôn của Cộng hoà Liên bang Đức liên tục tăng lên. Doanh số bán lẻ cũng ngày càng tăng và hình thức doanh nghiệp tự bán hàng đang thay thế ngày càng nhiều cho các cơ sở trong ngành thương nghiệp bán lẻ truyền thống.
Ngoại thương là một trong những nhân tố chủ yếu trong sự thành công của kinh tế Đức. Xuất khẩu đóng vai trò thiết yếu trong nền kinh tế Đức và là một trong những ngành đem về nhiều ngoại tệ nhất. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Đức gồm máy móc, hàng điện tử, ô tô, các sản phẩm hoá chất, thực phẩm, hàng dệt may, dụng cụ quang học và điện năng. Là một nước phụ thuộc nhiều vào ngoại thương nên Đức đồng thời cũng nhập nhiều loại hàng hoá và là nước nhập khẩu nhiều thứ hai thế giới. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc, phương tiện vận chuyển, hoá chất, thuốc lá, lương thực, đồ uống, kim loại và các sản phẩm dầu mỏ.Đức cũng nổi tiếng với các sản phẩm thủ công như lính chì và đồ lưu niệm.
Nông nghiệp
Cũng như các nuớc phương Tây khác, tỉ lệ lao động trong nông nghiệp của Đức ngày càng giảm đi. Lợi nhuận thấp được cho là nguyên nhân chính của sự thất bại của nhiều trang trại vừa và nhỏ. Các trang trại ngày càng lớn hơn và thường liên kết với nhau, mặc dù nhiều trang trại nhỏ vẫn làm thêm nhiều công việc phụ bán thời gian nữa.
Phần lớn diện tích nước Đức được dùng cho nông nghiệp, nhưng chỉ có 2% – 3% dân số Đức làm việc trong ngành này. Các vùng đất được chuyên môn hoá vào các lĩnh vực canh tác. Vùng bờ biển phía bắc rất thích hợp cho việc nuôi bò sữa và ngựa. Vùng chân núi Alps có nhiều cánh đồng cỏ. Nơi đây các ngành chăn nuôi gia cầm, lợn, bò và cừu rất phát triển. Dải đất màu mỡ dọc theo sườn nam vùng đất thấp là nơi gieo trồng lúa mì, lúa mạch, ngũ cốc, củ cải đường, cây ăn trái, khoai tây và nho. Đức có tên trong danh sách các nước sản xuất sữa, sản phẩm bơ sữa và thịt nhiều nhất thế giới. Nông nghiệp ở Đức được điều tiết theo chính sách nông nghiệp của Liên minh châu Âu.
Công nghiệp
Giống như hầu hết các nền kinh tế lớn khác, tỉ lệ lao động trong công nghiệp ở Đức đã giảm do sự phát triển nhanh của các ngành dịch vụ. Đức phải nhập khẩu hầu hết nguyên vật liệu và năng lượng, mặc dù có những mỏ than đá ở vùng Ruhr và dọc theo sông Saar. Đức cũng có quặng sắt, dầu mỏ và khí đốt, song trữ lượng không nhiều.
Kỹ nghệ hoá chất là một trong những ngành quan trọng nhất của Đức. Trong đó có những công ty như Bayer AG, BASF và Hoechst.
Ngành công nghiệp xe hơi của Đức là ngành có quy mô lớn nhất ở châu Âu. Thành công lớn nhất của nước Đức là trong ngành sản xuất xe hơi chất lượng cao. Có lẽ các nhãn mác xe hơi sang trọng nhất thế giới ngày nay hầu như đều có nguồn gốc từ Đức: Bayerische Motoren Werke AG (BMW), DaimlerChrysler AG (Mercedes-Benz), Porsche, Audi, Volkswagen, Bugatti, Lamborghini, Mini, Rolls-Royce, Bentley…..
Các ngành công nghiệp quan trọng khác gồm chế tạo máy bay, máy xây dựng, máy móc nông nghiệp, máy phát điện, điện tử, các thiết bị văn phòng. Mặc dù có những ngành công nghiệp rất thành công, song một số ngành truyền thống, chẳng hạn như luyện thép và đóng tàu, lại đang sa sút nghiêm trọng. Sự cạnh tranh từ Nhật và công nghệ mới đã làm giảm lợi nhuận của nước Đức.
Đức là trụ sở chính của nhiều công ty đa quốc gia khổng lồ như BASF, Robert Bosch GmbH, E.ON, Deutsche Telekom và Siemens AG.
Tuy có nhiều tập đoàn công nghiệp lớn, nhưng xương sống của kinh tế Đức lại là các công ty loại trung (Mittelstand) với quy mô dưới 1000 nhân viên. Trong tổng số 1016 Tỷ USD hàng hóa xuất khẩu năm 2005, một phần lớn xuất phát từ khu vực này. Hiện nay Đức thuộc top 3 nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu hàng hóa.
Dịch vụ
Lĩnh vực dịch vụ đã tăng đều đặn trong những năm gần đây và hiện đóng góp nhiều nhất vào tổng sản phẩm quốc nội. Lĩnh vực này bao gồm cả du lịch. Năm 2004, lượng khách nước ngoài đến Đức du lịch nhiều nhất là từ Hà Lan, kế đó là Vương quốc Anh và Mỹ.
Frankfurt am Main là trung tâm ngân hàng của nước Đức và là trung tâm tài chính lớn trên thế giới. Thị trường chứng khoán Frankfurt cũng là một trong những thị trường chứng khoán hàng đầu trên thế giới.
Trích nguồn: Wikipedia
Dân số
Nước Đức là một nước tương đối “đông đúc” với tổng số dân khoảng 81,8 triệu dân tính đến tháng 1 năm 2010. Gần 9% dân số không phải là gốc Đức. Đa số dân tập trung ở các khu đô thị và có những khác biệt đáng kể về sự phân bố giữa các bang. Mật độ dân số trung bình 229,4 người trên 1 kilômét vuông. Ước lượng tuổi thọ khi sinh của Đức là 79,9 năm. Tỷ suất sinh là 1,4 trẻ trên 1 bà mẹ, hay trung bình 7,9 trẻ sinh ra trên 1000 dân năm 2009, là một trong những nước có tỷ suất sinh thấp nhất trên thế giới.
Suy giảm dân số
Do xu thế thay đổi trong đồ thị thống kê tuổi, dự đoán là tổng dân số Đức sẽ giảm xuống khoảng 65 triệu cho đến năm 2050, ngay cả nếu có thêm số 5,8 triệu người nhập cư.
Suy giảm dân số dẫn đến những vấn đề tài chính nghiêm trọng. Luôn luôn có một “hợp đồng giữa các thế hệ” theo đó mà người lao động ngày nay nộp thuế, đóng bảo hiểm và đóng góp vào các quỹ phúc lợi xã hội để chi trả cho dịch vụ y tế và tiền lương của những người đã về hưu. Tiếp theo chính những người đã đóng góp này sau đó lại được hưởng lợi từ thế hệ kế tiếp… Đồ thị thống kê dân số nước Đức hiện nay có khuynh hướng thiên về số dân cao tuổi đến mức là hiện tại và sắp tới đang và sẽ còn sự thiếu hụt trong các nguồn thu của chính phủ để dành cho các quỹ trợ cấp xã hội. Một điều nữa, nhiều người già ở Đông Đức trước đây chưa từng bao giờ đóng góp vào quỹ trợ cấp vì không có những quy định như thế. “Thuế sinh thái” (Thuế phụ thu đánh vào nhiên liệu xe hơi và các loại dầu khác) mặc dù ban đầu không phải nhằm phục vụ mục tiêu này, bây giờ cũng được sử dụng để bù đắp cho sự thiếu hụt.
Đô thị hóa
Nước Đức có các thành phố lớn như: Berlin, Hamburg, München, Köln, Frankfurt, và Stuttgart. Khu vực đô thị lớn nhất là vùng Rhine-Ruhr (12 triệu người), bao gồm Düsseldorf (thủ phủ của North Rhine-Westphalia), Köln, Essen, Dortmund, Duisburg, và Bochum.
|
Xếp hạng | Thành phố / Bang | Dân số |
|
1 | Berlin / BE | 3,439,100 | ||
2 | Hamburg / HH | 1,769,117 | ||
3 | Munich / BY | 1,330,440 | ||
4 | Köln / NW | 998,105 | ||
5 | Frankfurt am Main / HE | 671,927 | ||
6 | Stuttgart / BW | 600,068 | ||
7 | Düsseldorf / NW | 586,217 | ||
8 | Dortmund / NW | 581,308 | ||
9 | Essen / NW | 576,259 | ||
10 | Bremen / HB | 547.685 | ||
11 | Hanover / NI | 520,966 | ||
12 | Leipzig / SN | 518,862 | ||
13 | Dresden / SN | 517,052 | ||
14 | Nuremberg / BY | 503,673 | ||
15 | Duisburg / NW | 491,931 | ||
Destatis (2009)[100] |
Ngôn ngữ
Ngôn ngữ nói và viết chính thức là tiếng Đức. Bên cạnh tiếng Đức là các ngôn ngữ của những dân tộc thiểu số đã sống lâu đời tại Đức mà đã được công nhận là ngôn ngữ chính thức như tiếng Đan Mạch và các tiếng nói của người Sorben và Friesen.
Martin Luther đã góp phần vào việc phát triển của tiếng Đức chuẩn trong thế kỷ 16 với việc dịch Kinh Thánh của ông. Jahann Christoph Adelung xuất bản năm 1871 quyển tự điển lớn đầu tiên. Đột phá lớn tiến tới một cách viết tiếng Đức thống nhất là quyển “Tự điển chính tả tiếng Đức” của Konrad Duden (1080) là quyển sách đã được chấp nhận là cơ sở của chính tả của cơ quan nhà nước trong cuộc cải tổ cách viết chính tả năm 1901 sau vài thay đổi nhỏ. Mãi đến năm 1996 mới có cuộc cải tổ cách viết mới.
Tiếng Đức đã từng một thời là ngôn ngữ chung (lingua franca) ở trung tâm châu Âu, Bắc Âu và Đông Âu. Ngày nay tiếng Đức là một trong những ngôn ngữ được dạy nhiều nhất trên thế giới, và là ngoại ngữ được yêu chuộng thứ hai sau tiếng Anh ở châu Âu.
Ngoại ngữ được dạy ưu tiên trong trường học là tiếng Anh, kế tiếp theo đó là tiếng Pháp và sau đó là tiếng La tinh. Trong những năm gần đây tiếng Tây Ban Nha ngày càng được ưa chuộng hơn.
Tôn giáo
Hai tôn giáo chính ở Đức là Ki-tô giáo và Do Thái giáo. Hồi giáo chỉ mới xuất hiện và lan rộng ở Đức sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Phần lớn đân số Đức theo Ki-tô giáo: 32,0% theo Tin Lành (ở Bắc và Đông Đức), 31,7% theo Công giáo La Mã (ở Tây và Nam Đức), 1,14% theo Chính Thống giáo Đông phương. Khoảng 27% người Đức không theo tôn giáo nào cả, phần lớn trong số họ sống ở miền Bắc, nhất là những vùng thuộc về Đông Đức cũ. Số còn lại theo các đạo khác.
Trích nguồn: Wikipedia
Năm 1921, đường cao tốc(autobahn) AVUS đầu tiên trên thế giới được xây dựng tại Berlin.Từ giữa thế kỷ 20 hệ thống giao thông đường bộ của Đức đã thay thế hệ thống giao thông đường sắt chiếm vị trí quan trọng nhất. Đức là nước có mạng lưới giao thông dày đặc nhất thế giới, bao gồm 12531 km đường cao tốc tính đến 01.01.2007 (Autobahn) và 41.386 km đường liên tỉnh. Nước Đức là nước duy nhất trên thế giới mà không có hạn chế tốc độ nói chung trên đường cao tốc.
Cùng với sự tư nhân hóa năm 1993, hệ thống đường sắt dần dần bị thu nhỏ và hạn chế lại, trong khi hệ thống giao thông hàng không ngày càng phát triển. Sân bay quốc tế Frankfurt hiện tại là sân bay lớn nhất ở Đức. Mặc dù giao thông đường bộ và hàng không gây ra nhiều ô nhiễm môi trường, Đức vẫn không ngừng đầu tư và mở rộng hai hệ thống này, thay vì tập trung vào sử dụng hệ thống đường sắt vốn có một số ưu thế.
Hệ thống giao thông đường thủy cũng có một vị trí rất quan trọng đối với một nuớc có nền ngoại thương phát triển như Đức.
Những năm gần đây, du học nghề ngành điều dưỡng tại Đức đang là một cụm từ hot dành cho các bạn trẻ. Nước Đức là một trong những nước có dân số già nhất trên thế giới. Số lượng người lớn tuổi nhiều làm cho gánh nặng an sinh xã hội, chăm sóc người cao tuổi ngày càng lớn. Đặc biệt ở Đức hầu hết các cụ già đều ở riêng không sống chung với con cái.
Chính vì thế, du học nghề ngành điều dưỡng tại Đức đang được chính phủ Đức đầu tư và hỗ trợ để du học sinh các nước đến để học tập và làm việc. Đây cũng là một ngành đang thiếu hụt lao động rất cao ở nước Đức, nên cơ hội các du học sinh sẽ có cơ hội định cư vĩnh viễn ở Đức sau 3 năm làm việc. Sau khi tốt nghiệp, khả năng tới 99% là bạn nhận được việc làm tại Đức. Theo luật pháp của Đức, sau 3 năm làm việc đầy đủ thì bạn có thể đệ đơn xin định cư vĩnh viễn tại Đức.
Một số trường đào tạo nghề điều dưỡng ở Đức không thu học phí. Trái lại, họ còn trả lương cho học viên. Những người làm điều dưỡng ở Đức chia sẻ: “ Môi trường học tập ở đây rất tốt, dễ xin việc làm (nhất là nghề điều dưỡng), thu nhập lý tưởng. Mỗi tội áp lực công việc khá nhiều”. Nếu bạn vượt qua trở ngại này, thì Đức là quốc gia lý tưởng để sinh sống và làm việc.
Khi làm việc tại Đức, ngoài được chiêm ngưỡng phong cảnh của châu Âu, bạn còn được trải nghiệm làm việc ở những bệnh viện chất lượng cao, chuyên nghiệp với đầy đủ thiết bị, dụng cụ. Ngoài ra, khuôn viên làm việc cũng vô cùng đẹp và có rất nhiều hoạt động vui chơi với các cụ già, cũng là cơ hội để các bạn tiềm hiểu thêm về con người, kỹ năng giao tiếp tiếng Đức hiệu quả. Đặc biệt lao động Việt làm việc tại các viện dưỡng lão của Đức 3 năm, có thể hưởng mức lương như người bản xứ khoảng 55 triệu đồng mỗi tháng.
Viện dưỡng lão Thurn và Taxis là một trong những viện dưỡng lão hàng đầu nước Đức, nằm ở thành phố Regensburg, nước Đức. Ở đây, du học sinh sẽ trải nghiệm môi trường làm việc chuyên nghiệp, cơ sở vật chất hiện đại, cùng đa dạng hoạt động khác nhau.
Viện dưỡng lão Thurn và Taxis nằm cạnh phố cổ Regensburg
TÒA NHÀ VIỆN DƯỠNG LÃO
TOÀN CẢNH VIỆN DƯỠNG LÃO
HÌNH ẢNH VỀ NƠI Ở VÀ SINH HOẠT
Các phòng được trang trí gọn gàng và ấm cúng
Phòng ăn sạch sẽ và sang trọng
Có nhiều hoạt động giải trí
VIỆN DƯỠNG LÃO – NƠI ĐIỀU DƯỠNG VIỆT NAM SANG LÀM VIỆC
Kontakt
Emmeramsplatz 7
93047 Regensburg
Telefon: 0941/5864-0
srr-info@sr-regensburg.de
Cộng hòa Weimar (1919-1933)
Cùng với việc nước Đức đầu hàng năm 1918 và Cách mạng tháng 11, không những cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất mà chế độ quân chủ thống trị Đế quốc Đức (cũng như là tại Đế quốc Áo-Hung) cũng chấm dứt. Hoàng đế thoái vị và đế quốc Đức trở thành một nước cộng hòa dân chủ nghị viện. Trong Hòa ước Versailles nước Đức bị các lực lượng chiến thắng bắt buộc phải nhượng nhiều vùng đất lớn. Thêm vào đó tiền bồi thường hằng năm được ấn định kéo dài trong 80 năm. Hiệp ước mà chỉ được phái đoàn Đức miễn cưỡng ký kết là một việc làm nhục nước Đức, thực hiện các ý tưởng phục thù của Pháp được gây ra bởi sự làm nhục nước Pháp 50 năm trước đó.
Ngay sau khi hoàng đế thoái vị, vào ngày 9 tháng 11 năm 1918 nền cộng hòa được công bố. Đầu tiên hội đồng các ủy viên nhân dân thành lập chính phủ, có trách nhiệm hoàn chỉnh một hiến pháp tại thành phố Weimar, vì thế mà nền cộng hòa sau này được gọi là Cộng hòa Weimar. Ngay trong cùng năm đấy Đảng Cộng sản Đức được thành lập và trong tháng 1 năm 1919 là Đảng Công nhân Đức, sau này đổi tên thành Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa (Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei-NSDAP). Vào ngày 11 tháng 8 năm 1919 hiến pháp mới (Hiến pháp Weimar) bắt đầu có hiệu lực.
Việc trả tiền bồi thường đã đè nặng ngay từ đầu lên bầu không khí chính trị của nền cộng hòa trẻ tuổi. Những giả thuyết thông đồng, thí dụ như Truyền thuyết lưỡi dao đâm sau lưng (Dolchstoßlegende), do các lực lượng cực hữu loan truyền đã dẫn đến nhiều cuộc ám sát chính trị và âm mưu đảo chính mà trong đó quan trọng nhất là cuộc đảo chính Kapp 1920 và đảo chính Hitler-Ludendorff năm 1923. Đại diện quan trọng của lực lượng dân chủ như Matthias Erzberger và Walther Rathenau chết trong làn mưa đạn của những người ám sát thuộc phe cựu hữu. Thủ tướng Đế chế (Reichskanzler) đầu tiên Philipp Scheidemann chỉ thoát chết sít sao trong một cuộc mưu sát.
Trên đỉnh cao của cuộc suy thoái kinh tế thế giới bắt đầu từ năm 1929, tại Đức có hơn 6 triệu người thất nghiệp mà phần lớn sống trong cảnh cùng cực. Hậu quả là các đảng cực hữu càng có nhiều người ủng hộ hơn trước đây. Sau chiến thắng lớn của những người thuộc Quốc Xã năm 1930 các thủ tướng đế chế không còn đa số trong quốc hội nữa mà chỉ điều hành chính phủ với sự trợ giúp của nội các không còn được hợp pháp hóa một cách dân chủ. Tổng thống đế chế (Reichspräsident) Paul von Hindenburg thực thi thẩm quyền của ông, bổ nhiệm thủ tướng không cần sự đồng ý của quốc hội. Luật lệ chỉ còn được ban hành như “pháp lệnh khẩn cấp” (Notverordnung) dựa trên điều 48 của Hiến pháp Weimar quy định về tình trạng khẩn cấp.
Ngày 30 tháng 1 năm 1933 Hindenburg bổ nhiệm Adolf Hitler làm thủ tướng đế chế. Ngày 27 tháng 2 xảy ra vụ đốt cháy tòa nhà quốc hội đế chế (Reichstagsbrand). Hitler lợi dụng vụ đốt cháy này để ban hành thêm một pháp lệnh khẩn cấp, vô hiệu hóa quyền công dân vô thời hạn. Trước cuộc bầu cử quốc hội vào ngày 5 tháng 3 năm 1933 đã xảy ra hằng loạt các vụ bắt giam những đối thủ chính trị, đặc biệt là những người cộng sản và dân chủ xã hội. Mặc dù có thêm được rất nhiều phiếu nhưng Đảng Đức Quốc Xã không đạt được đa số tuyệt đối trong cuộc bầu cử và vì thế phải liên minh với Đảng Nhân dân Đức Quốc (Deutschnationale Volkspartei). Quốc hội vừa được thành lập thông qua đạo luật toàn quyền (Ermächtigungsgesetz) 5 ngày sau đó, thừa nhận quyền lực không giới hạn của chính phủ Hitler.
Đức Quốc xã
Adolf Hitler
Sau khi lên nắm quyền, Đảng Quốc xã đã nhanh chóng biến nước Đức thành một quốc gia chỉ có một đảng. Trong khi các đối thủ chính trị bị truy đuổi thì những người dân theo đạo Do Thái trở thành mục tiêu của chính sách tẩy chay. Kết quả của chính sách này là việc từ 5 đến 6 triệu người Do Thái ở châu Âu bị sát hại trong những năm chiến tranh (xem Holocaust). Ngoài ra còn có hàng nghìn người dân du mục, đồng tính luyến ái hay tàn tật cũng bị giam giữ và tàn sát một cách không thương tiếc.
Một mục tiêu quan trọng khác của Đảng Quốc xã là sự bành trướng của nước Đức. Năm 1938 Áo được sáp nhập vào Đức một cách hòa bình dưới sự chào mừng hân hoan của phần lớn dân chúng. Trong cùng năm đó Adolf Hitler xâm chiếm vùng đất Sudetenland thông qua Hiệp ước München. Chỉ đến khi quân đội Đức tiến quân vào lãnh thổ còn lại của Séc thì các quốc gia khác mới nhận ra lỗi lầm đã mắc phải thông qua chính sách nhân nhượng (Appeasement) của họ. Sau khi cuộc thương lượng về khu vực người Đức ở Ba Lan bị thất bại, Chiến tranh thế giới lần thứ hai được bắt đầu với việc Đức tấn công vào Ba Lan ngày 1 tháng 9 năm 1939. Khoảng 55 triệu người đã tử vong trong cuộc chiến tranh này. Ngày 8 tháng 5 năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai được kết thúc với sự đầu hàng vô điều kiện của Đức. Hitler đã tự sát vào ngày 30 tháng 4 trước đó. Những kẻ có trách nhiệm sống sót bị phán xử trong Tòa án Nürnberg sau này.
Đồng Minh chiếm đóng (1945-1949)
Trong thời gian đầu, Mỹ, Liên Xô, Anh và sau này có cả Pháp cố gắng lập nên một chính sách chiếm đóng chung. Họ thống nhất về các mặt phi quân sự hóa và phi phát-xít hóa. Nhưng đến câu hỏi, phải hiểu thế nào là dân chủ, thì Liên Xô và các nước phương Tây không thể đi đến thống nhất.
Vào ngày 23 tháng 5 năm 1949 nước Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) được thành lập từ 3 khu vực chiếm đóng của Anh, Mỹ và Pháp. Chẳng bao lâu sau, nước Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) cũng được ra đời từ khu vực chiếm đóng của Liên Xô vào ngày 7 tháng 10 năm 1949. Lãnh thổ của Đế chế Đức được chia ra làm 2 nước, các vùng Pommer, Schlesien và miền Nam Đông Phổ thuộc về Ba Lan, miền Bắc Đông Phổ trở thành tỉnh Kaliningrad (tiếng Nga: Калинингра́дская о́бласть) thuộc Liên bang Xô viết.
Chia cắt và tái thống nhất (1949-1990)
Bức tường Berlin
Cuộc chiến tranh lạnh sau đó không những chia cắt Đông và Tây Âu mà cả Đông và Tây Đức.
Trong khi một nền kinh tế kế hoạch được xây dựng trong nước Cộng hòa Dân chủ Đức thì Cộng hòa Liên bang Đức quyết định đi theo con đường kinh tế thị trường mang tính xã hội. Điều kỳ diệu kinh tế dẫn đến phát triển kinh tế cao liên tục, việc làm cho mọi người và thịnh vượng trong khuôn khổ của một chính sách kinh tế dưới quyền của thủ tướng đầu tiên là Konrad Adenauer và bộ trưởng kinh tế Ludwig Erhard, người góp phần điều khiển quyết định. Liên minh lớn từ CDU và SPD thành lập năm 1966 ban hành một loạt sửa đổi luật pháp mang tính cơ bản. Cùng với chính phủ dưới quyền của thủ tướng Willy Brandt một loạt cải tổ xã hội và ngoại giao được thực hiện. Chính sách đối ngoại về phía đông dựa trên đối thoại với khối liên minh trong Hiệp ước Warsaw đã làm giảm căng thẳng về ngoại giao và mang lại sự gần gũi Đức-Đức mà đỉnh cao là việc Quỳ gối tại Warsaw của Brandt. Việc này đã mang lại cho Willi Brandt Giải thưởng Nobel về hòa bình năm 1972 nhưng đã bị những người bảo thủ chỉ trích kịch liệt. Willi Brandt từ chức sau vụ khám phá ra người cố vấn của ông, Günter Guillaume, là một điệp viên. Người nối tiếp ông, Helmut Schmidt, phải đối phó với nhiều khó khăn như nợ và thất nghiệp ngày càng tăng, nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế và khủng bố của Phái Hồng quân (Rote Armee Fraktion-RAF). Sau khi chính phủ liên minh tan rã, Helmut Kohl trở thành thủ tướng năm 1982 thông qua một cuộc bỏ phiếu bãi miễn. Ông làm thủ tướng lâu hơn những người đi trước và được coi là thủ tướng của việc thống nhất Đức.
Cuộc thay đổi chính quyền ở Liên Xô dẫn đến chính sách mở cửa, các cuộc cách mạng và sự đổ vỡ của chính quyền cộng sản ở Đông Đức cũng như ở các nước Đông Âu khác.
Từ Cộng hòa Bonn đến Cộng hòa Berlin (từ 1990 đến nay)
Tiếp theo sự sụp đổ của Bức tường Berlin ngày 9 tháng 11 năm 1989, Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức mất đi đa số trong Quốc hội tại cuộc bầu cử ngày 18 tháng 3 năm 1990. Ngày 23 tháng 8 cùng năm, Quốc hội Đông Đức quyết định rằng lãnh thổ quốc gia này sẽ được đặt dưới hệ thống pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức kể từ ngày 3 tháng 10 năm 1990. Kết quả của sự sáp nhập này, Cộng hòa Dân chủ Đức chính thức chấm dứt sự tồn tại của nó. Phần lớn quân đội của các lực lượng chiếm đóng trước đây rời khỏi nước Đức, những đơn vị quân sự còn lại của các lực lượng chiếm đóng không còn quyền kiểm soát nữa, mà thuộc sự quản lý dưới quy chế của quân đội NATO. Kể từ thời điểm này, nước Đức lần đầu tiên từ sau Đệ nhị thế chiến khôi phục lại được hoàn toàn chủ quyền lãnh thổ.
Với đa số sít sao (338 phiếu thuận trên 320 phiếu chống) vào ngày 20 tháng 6 năm 1991 Quốc hội Liên bang quyết định dời chính phủ và quốc hội từ thủ đô tạm thời Bonn về Berlin. Tháng 9 năm 1999 công cuộc dời đô hoàn thành.
Sau sự tăng trưởng ngắn từ việc tái thống nhất, thập niên 1990 mang dấu ấn của trì trệ kinh tế, thất nghiệp và trì hoãn cải tổ, vì thế mà chính phủ Helmut Kohl đã thất bại trong cuộc bầu cử năm 1998. Liên minh chính phủ của Liên Minh 90/Đảng Xanh và Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD) dưới sự lãnh đạo của Gerhard Schröder thay đổi đường lối. Chính sách của liên bang trong thời gian chuyển tiếp sang thế kỷ 21 chủ yếu là chính sách cải tổ. Chính phủ đỏ-xanh thực hiện nhiều thay đổi cơ bản trong chính sách xã hội, tiền hưu và y tế. Đề tài sinh thái được coi trọng hơn, thí dụ như với việc áp dụng một loại thuế mới được tranh cãi là thuế sinh thái trên giá năng lượng, bắt đầu từ bỏ năng lượng nguyên tử hay luật về giảm thiểu khí nhà kính.
Nước Đức gây sự chú ý về đường lối ngoại giao trong thời gian của cuộc chiến tranh Iraq năm 2003 khi không tham chiến. Điều này đã dẫn đến xung đột đặc biệt là với Mỹ nhưng cũng mang lại nhiều cảm tình của nhân dân Đức đối với Schröder, được đặc tả như là “thủ tướng hòa bình”.
Cùng với đạo luật Hartz IV năm 2004 mang nhiều thay đổi lớn với mục đích làm sống động thị trường lao động bằng cách nâng sức ép đối với những người thất nghiệp, phản kháng chống lại đường lối chính phủ mà được cảm nhận là không có công bằng xã hội cũng tăng lên. Sau các thất bại trong những cuộc bầu cử quốc hội tiểu bang năm 2004 và 2005, vào ngày 1 tháng 7 năm 2005 thủ tướng liên bang Schröder đã yêu cầu Quốc hội Liên bang bỏ phiếu tín nhiệm theo điều 68 Hiến pháp với mục đích cố ý thất bại. Sau đó tổng thống liên bang Horst Köhler đã giải thể Quốc hội Liên bang và ấn định cuộc bầu cử mới vào ngày 18 tháng 9 năm 2005. Cuộc bầu cử không mang lại một kết quả có lợi cho một phái chính trị nào nên CDU/CSU và SPD thống nhất thành lập một chính phủ liên minh lớn dưới quyền của thủ tướng Angela Merkel (CDU).
Trích nguồn: Wikipedia