Thời tiền sử và Cổ đại
Bản đồ các bộ tộc người German vào khoảng 100 năm sau Công Nguyên
Các bằng chứng lâu đời nhất về dân cư trên lãnh thổ ngày nay của Cộng hòa Liên bang Đức là vào khoảng 700.000 năm trước đây. Người ta cho rằng, cách đây từ khoảng 500.000 năm, đã có dân cư sinh sống lâu dài ở đây. Trong nước Đức có những khai quật quan trọng từ thời kỳ Nguyên thủy: đại diện của một loài người trước kia Homo sapiens neanderthalensis, người Neanderthal, được gọi theo Neanderthal tại Mettman. Loài này đã bị Homo sapiens sapiens, loài người hiện đại, di dân đến cách đây khoảng 40.000 năm đẩy lùi. Trong thời kỳ Đồ đá mới đã có những địa điểm dân cư cố định với trồng trọt và chăn nuôi. Một vài vật văn hóa quan trọng từ thời kỳ này còn tồn tại cho đến ngày nay như đĩa bầu trời Nebra, chứng tỏ rằng ngay từ khoảng năm 2.000 trước Công Nguyên người ta đã biết đến thiên văn học trong vùng này.
Những bộ tộc người Kelt (tiếng Anh: Celt) và người German được người Hy Lạp và La Mã ghi chép lại lần đầu tiên trong thời gian vào trước Công Nguyên. Vào khoảng 500 năm trước Công Nguyên, miền Nam của nước Đức ngày nay do người Kelt sinh sống và ở miền Bắc Đức là người German. Người German di dân trong vòng nhiều thế kỷ về phía nam nên vào năm sinh của Chúa Giêsu, sông Donau là ranh giới áng chừng về dân cư giữa người German và Kelt. Những người nghiên cứu về ngôn ngữ phỏng đoán rằng nhiều đặc điểm của những tiếng địa phương miền Nam nước Đức có thể là do ảnh hưởng của người Kelt. Từ năm 58 trước Công Nguyên đến khoảng năm 455 các khu vực tả ngạn sông Rhein cũng như phía nam sông Donau thuộc về Đế quốc La Mã. Lãnh thổ của Đế quốc La Mã thuộc nước Đức ngày nay được chia ra thành các tỉnh Thượng Germania, Hạ Germania và Raetia. Trong vùng này người La Mã thành lập 4 doanh trại Quân đội mà sau này phát triển thành các thành phố. Các thành phố quan trọng nhất trong thời La Mã là Köln, Trier (thành phố lâu đời nhất của Đức) và Augsburg. Nhà độc tài uy chấn của La Mã là Julius Caesar đã phải tán dương sự uy dũng của người German. Vào năm 9 sau Công Nguyên, người German kiêu hùng dưới sự lãnh đạo của tù trưởng Arminius đã giải phóng nhân dân Đại Germania thoát khỏi cuộc xâm lược của các binh đoàn La Mã tinh nhuệ trong trận đánh kịch liệt tại khu rừng Teutoburg, trở thành biểu hiện của tinh thần bất khuất vào thời kỳ cổ đại. Nhà sử học kiệt xuất Tacitus (người La Mã) viết lịch sử đầu tiên của toàn Germania vào năm 98. Trong đó, ông ca ngợi niềm vinh quang của dân tộc Đức ngay từ buổi đầu lịch sử. Ông tôn vinh man tộc German có tinh thần độc lập dân tộc cao quý, dũng mãnh, với đời sống chính trị, tôn giáo đúng đắn và tài năng tổ chức chính quyền. Các bộc lạc man rợ German vĩ đại hơn hẳn dân man rợ Gaul sống trong Đế quốc La Mã thời đó.
Cuộc di dân và thời gian đầu của thời kỳ Trung cổ
Phân chia sau Hiệp ước Verdun và Hiệp ước Mersen
Sau cuộc tấn công của quân man rợ Hung Nô (tiếng Anh: Huns) năm 375 và đồng thời với sự suy tàn của Đế quốc Tây La Mã, từ năm 395 bắt đầu có cuộc di cư của các dân tộc mà trong quá trình này các bộ tộc người German liên tục đi về hướng tây nam. Vào năm 378, một bộ lạc man rợ German là người Goth đã tấn công Đế quốc Tây La Mã và đánh thắng Hoàng đế Valens trong trận đánh ác liệt tại Hadrianopolis.Vào năm 451, người Tây Goth do vua Theodoric thân chinh cầm đầu họp binh với quân La Mã do danh tướng Flavius Aetius chỉ huy và đánh tan tác liên quân Hung Nô – Đông Goth do vua Attila thân hành thống lĩnh trong trận đánh quyết liệt tại Chalons-Troyes. Vì vua Attila là “ngọn roi của Thiên Chúa” khi đó, chiến công hiển hách này đã mang lại uy danh cho người German kiêu hùng. Vào năm 454, bằng một đòn giáng sấm sét tại Nedao, các bộ lạc man tộc German đã kết liễu mạng sống của vua Hung Nô là Ellac tiêu diệt sạch bóng quân man rợ Hung Nô tại Âu châu. Và với việc quân Hung Nô bị hủy diệt trong trận đánh này thì dĩ nhiên là người Đông Goth cũng giành độc lập tự do. Những bộ tộc người Slavơ di cư đến các vùng gần như không có người ở của miền Đông nước Đức ngày nay cho đến đường sông Elbe-Saale vào thời cuối Cổ đại trong thế kỷ thứ 7. Nhiều phần dân cư của các tiểu bang Đông Đức ngày nay vì thế mà mang nhiều ảnh hưởng Slavơ (Germania Slavica) cho đến giữa thời Trung cổ. Mãi đến lúc lập cư phía đông giữa thời kỳ Trung cổ họ mới được đồng hóa. Những người nghiên cứu về ngôn ngữ phỏng đoán là vào khoảng 1/3 họ của người Đức ngày nay có nguồn gốc Slavơ. Phần chính của Tây Âu và Trung Âu do Vương quốc Frank chiếm đóng, vùng miền Bắc nước Đức ngày nay do người Sachsen làm chủ. Khi vó ngựa của người Ả Rập tung hoành Âu châu, chính người Frank do danh tướng Karl Búa Sắt chỉ huy đã đánh tan tác quân xâm lược Ả Rập trong trận đánh kịch liệt tại Tours (732), hất cẳng được bước tiến công của quân Ả Rập vào châu Âu.
Sau cuộc chinh phạt đẫm máu người Sachsen và cưỡng ép họ chuyển đạo dưới vua Karl Đại Đế, Vương quốc Frank kéo dài đến biển Bắc, sông Eider và nước Áo ngày nay. Người Sachsen đã bị chinh phục và thủ lĩnh Witikind – dù đã chiến đấu dũng mãnh chống quân xâm lược Frank. Chiến thắng của các cuộc chinh phạt của Đại Đế Karl đã hợp nhất các dân tộc German thành một quốc gia Ki-tô giáo. Không những thế, ông cũng thành công trong việc bảo vệ biên giới của Đế quốc Frank trước người Slavơ ở phía đông và người Hồi giáo ở phía nam. Nhà vua đã thân chinh khởi đại binh tinh nhuệ đánh tan nát người Avar và người Sla-vơ, hủy diệt các khu định cư của họ và cũng đè lên họ những chính sách khắc nghiệp. Ông còn xuất binh tiến đánh người Hồi giáo ở Tây Ban Nha, dù lúc đầu không thành công nhưng sau đó cuộc chinh phạt giành thắng lợi. Trên đỉnh cao của quyền lực Frank, Đại đế Karl đòi hỏi trở thành quyền lực lãnh đạo trong châu Âu. Vào lễ Giáng sinh năm 800, ông đăng quang Hoàng đế tại thành La Mã. Đế quốc La Mã Thần thánh đã ra đời, mang lại hy vọng về việc thiết lập một Khối Thịnh vượng chung Ki-tô giáo (Respublica Christiana). Thế nhưng đế quốc của ông thống nhất không được lâu: tranh cãi trong những người kế thừa tác động đến việc chia ba đế quốc trong Hiệp ước Verdun (843) thành Vương quốc Frank Đông dưới quyền vua Ludwig Germanicus (sau này là Ludwig Đức), Vương quốc Frank Tây dưới quyền vua Karl dem Kahlen và vương quốc nằm giữa của Lothar I có tên là Lotharingien (tiếng Anh: Lotharingia, tiếng La tinh: Lotharii Regnum). Vương quốc Frank Đông tạo thành khuôn khổ về địa lý cho Đế quốc Đức thành hình sau này.
Đế quốc La Mã Thần thánh và sự vươn lên của nước Phổ (962-1806)
Ngày 2 tháng 2 năm 962 thường được xem như là ngày bắt đầu của truyền thống quốc gia Đức, là ngày Otto I là vua nước Frank Đông đầu tiên lên ngôi Hoàng đế tại thành La Mã và do đó thành lập Đế quốc La Mã Thần thánh lần thứ hai. Ông lập chiến công hiển hách đánh đuổi quân xâm lược Sla-vơ và Hungary ra khỏi nước Đức. Để gầy dựng lại Đế quốc của Hoàng đế Karl Đại Đế năm xưa, ông thân chinh kéo đại quân vượt đèo Anpơ, đánh đuổi mọi kẻ thù của Giáo triều và nhờ đó ông được Giáo hoàng tấn phong làm Hoàng đế La Mã Thần thánh. Dưới triều Hoàng đế Otto I, nước Đức trở thành một trong những liệt cường hùng mạnh nhất của châu Âu. Thế nhưng năm 911 cũng được xem như là khởi đầu khi Konrad I lên nắm quyền như là ông vua đầu tiên của nước Đức không thuộc Vương triều Karolingien. Trước đây, Hiệp ước Verdun (843) hay Tuyên ngôn Strasbourg (843) cũng được coi là thời điểm khởi đầu của đất nước. Trong thế kỷ thứ 10 lần đầu tiên từ ngữ regnum teutonicum (Vương quốc Đức) được sử dụng để chỉ Vương quốc Frank Đông. Từ Deutschland (Đức Quốc) xuất phát từ tên gọi này của vương quốc.
Hoàng đế Otto I không xóa bỏ các Công quốc nhưng ông cắt giảm quyền lực của các Quận công hùng mạnh. Tên chính thức của Đế quốc La Mã Thần thánh thay đổi nhiều lần qua các thế kỷ. Cho đến thế kỷ 12 còn được gọi là “Đế quốc Thần thánh” (Heiliges Reich), từ giữa thế kỷ 13 là “Đế quốc La Mã Thần thánh” (Heiliges Römisches Reich) và từ thế kỷ 15 là “Đế quốc La Mã Thần thánh Dân tộc Đức” (Heiliges Römisches Reich Deutscher Nation).
Trước đó các phần của Đế quốc Frank đã đi những con đường khác nhau: trong khi Vương quốc Frank Tây phát triển trở thành nước Pháp tập trung quyền lực thì Vương quốc Frank Đông chịu nhiều ảnh hưởng của các Vương hầu từng vùng, là những người bầu ra hoàng đế và qua đó mà có thể tạo tác động cho lợi ích riêng của họ. Mặc dù các Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh đã nhiều lần cố gắng củng cố vị trí của mình nhưng đế quốc vẫn là một liên minh của các lãnh thổ lớn, trung bình, nhiều lãnh thổ nhỏ cũng như là những thành phố đế chế tự do. Để rồi trong suốt các triều đại Otto, (936 – 1024), Franconia (1024 – 1137), và Hohenstaufen (1138 – 1254), các vua chúa của Đế quốc La Mã Thần thánh không thể nào thống nhất dân tộc Đức. Dưới triều Hoàng đế Otto III, ông tham vọng mở rộng quốc gia Đức nhưng vướng víu vào xung đột với thế lực Giáo hoàng. Friedrich I Barbarossa – vị Hoàng đế khai quốc của Vương triều Hohenstaufen, được xem là một vị vua huyền thoại trong lịch sử nước Đức thời Trung Cổ, đã tham chiến trong các cuộc Thập tự chinh chống người Hồi giáo thời bấy giờ. Không những thế, ông còn chống nhau với Giáo hoàng lẫn Liên minh Lombard ở Bắc Ý. Các Hoàng đế triều Hohenstaufen như Heinrich VI (trị vì: 1190 – 1197), Friedrich II (trị vì: 1212 – 1250) và Konrad IV (trị vì: 1250 – 1254) không thể phá vỡ uy quyền tối cao của thế lực Giáo hoàng. Tuy vậy, Vương triều Hohenstaufen vẫn được xem là một trong những triều đại hào hùng nhất trong nền chính sử dân tộc Đức. Các Hoàng đế nhà Hohenstaufen đã bành trướng bờ cõi và khuếch trương định cư ở vùng đông bắc. Một trong những vị Hoàng đế lẫy lừng nhất là Friedrich II đã mở mang nền học vấn của đất nước, giống như Charlemagne năm xưa vậy. Không những thế, chính ông còn ngự bút viết một quyển sách. Ông luôn chuyên tâm học ngoại ngữ và làm thơ. Sau khi Hoàng đế Konrad IV qua đời vào năm 1254 thì Đế quốc có biến loạn. Với Vương hầu Friedrich VI nhà Hohenzollern, vào năm 1417 lãnh địa phong kiến Brandenburg ra đời. Vương triều Habsburg lên thống trị Đế quốc La Mã Thần thánh sau khi Hoàng đế Rudolf I lên ngôi báu vào năm 1273. Tân triều cũng không thể thống nhất được nước Đức.
Sau triều đình Habsburg dời đô về thành Viên. Với Vương triều này, người Áo dẫn đầu Đế quốc La Mã Thần thánh. Các Hoàng đế nhà Habsburg thường kiêm danh hiệu Đại Quận công nước Áo. Nhà Habsburg có những vị Hoàng đế kiệt xuất của nhà Habsburg như Maximilian I (trị vì: 1493 – 1519) và Karl V (trị vì: 1519 – 1556). Nhưng họ vẫn không thành công trong việc thống nhất dân tộc Đức. Vào năm 1526, Sultan nước Thổ Nhĩ Kỳ là Suleiman I ngự giá thân chinh đánh bại vua nước Hungary – một thành viên của Hoàng gia Habsburg. Vào năm 1529, Quân đội hùng mạnh của Suleiman I suýt nữa đoạt được kinh thành Viên. Kinh sợ trước vó ngựa uy chấn của quân Thổ Nhĩ Kỳ, Hoàng đế Karl V phải thân chinh đốc xuất đại binh và đánh đuổi địch ra khỏi sông Danube vào năm 1532. Trong công cuộc tái chiếm nước Hungary về cho Ki-tô giáo, ông bị đánh bại và rồi phải triều cống cho Triều đình Thổ Nhĩ Kỳ. Bắt đầu từ năm 1530, sau khi những nỗ lực nhằm cản trở đạo Tin Lành của Giáo hội Thiên Chúa giáo thất bại, đạo Tin Lành được công nhận là quốc giáo trong nhiều lãnh thổ của đế chế. Người có công lập ra đức tin mới này chính là Thánh Martin Luther. Phong trào Kháng Cách của ông mở đầu với 95 luận đề được ông dán lên cổng thành Schlosskirche tại Wittenberg vaò ngày 31 tháng 5 năm 1517. Qua đó, ông tố cáo việc dùng phép giải tội của thế lực Giáo hoàng thời đó. Lời lẽ của những luận đề này rất ư là thẳng thắn và đanh thép, và nhờ đó Luther trở thành một nhà cải cách tôn giáo. Đay là bước tiến đầu tiên trong việc kháng cự thế lực Giáo hội Công giáo và khơi mào cho phong trào Kháng Cách. Tại Hội nghị Worms vào năm 1521, Hoàng đế Karl V tuyên bố trục xuất Martin Luther ra khỏi Đế quốc La Mã Thần thánh, do sự cương quyết của ông trong việc cải cách tôn giáo và tố cáo Giáo hoàng. Chính phong trào Kháng Cách này, cùng với những cuộc tiến công của người Pháp và người Thổ Nhĩ Kỳ, đã ngăn cản sự thống nhất của Đế quốc. Trong cuộc chiến tranh chống Pháp, Karl V đã thân chinh khởi đại binh đánh tan nát quân địch trong trận đánh đẫm máu tại Pavia (1525) và buộc Pháp phải ký một Hòa ước nhục nhã. Đến thập niên 1540, ông tiếp tục đại phá tan tành quân Pháp và hợp binh với quân Anh của vua Henry VIII, mang lại nỗi đau đớn thất bại cho Pháp.
Vào năm 1530, Hòa ước Augsburg được ký kết để đức tin Kháng Cách giảng hòa với Công giáo La Mã. Tuy nhiên, Hòa ước này chỉ gây thêm tranh cãi. Và rồi, mâu thuẫn tôn giáo gay gắt ở Đức đã dẫn đến cuộc Chiến tranh Ba Mươi năm (1618 – 1648) vô cùng tàn khốc. Ban đầu, đức tin Kháng Cách mất dần lãnh thổ, mang lại thế thượng phong cho Công giáo La Mã. Để biến biển Baltic thành ao nhà của Đế quốc Thụy Điển, vua Gustav II Adolf thân chinh khởi đại binh chinh phạt miền Bắc Đức vào năm 1630, trở thành minh chủ của Liên minh Tin Lành. Ông đại phá tan nát Liên đoàn Công giáo (Hoàng đế La Mã Thần thánh dẫn đầu) trong trận đánh ác liệt tại Leipzig (1630) và thân hành kéo đại quân về miền Nam Đức, chiếm lĩnh được xứ Bayern. Sau đó, nhà vua Thụy Điển lại đánh tan tác Liên đoàn Công giáo trong trận đánh khốc liệt tại Lützen (1632), nhưng ông trận vong. Song vào năm 1635, quan Nhiếp chính Pháp là Hồng y Richelieu đưa quân Pháp vào tham chiến, tuy Pháp là nước Công giáo nhưng là kẻ thù truyền kiếp của Vương triều nhà Habsburg. Theo Hòa ước Westfalen (1648), Hoàng đế chỉ còn một vị trí chủ yếu là về mặt hình thức, phe Kháng Cách thắng trận đã chấm dứt những ý định thống nhất dân tộc Đức dưới sự thống trị của Vương triều Habsburg. Cuộc chiến tranh điên cuồng này đã mang lại nhiều hậu quả cho nhân dân Đức.
Các Vương hầu ở Đức bấy giờ đã được tự do khỏi Đế quyền của nhà Habsburg, và toàn thể Đức lúc ấy đã bị tàn phá nghiêm trọng. Tuy Hoàng đế vẫn còn Đế quyền trên danh nghĩa sau Hòa ước Westfalen, uy thế của Vương triều Habsburg bị suy sụp trước sự trỗi dậy của dòng họ Hohenzollern. Kể từ năm 1618, Tuyển hầu tước xứ Brandenburg là Johann Sigismund mở rộng cương thổ, từ đó kiêm luôn lãnh chúa xứ Phổ – dần dần tạo nên Nhà nước Phổ, theo Kháng Cách, dần dần mở mang cương thổ. Trong cuộc Chiến tranh Ba Mươi Năm, vua Gustav II Adolf đã buộc họ phải đứng về phe Thụy Điển. Tuyển hầu tước Georg Wilhelm thật quá yếu kém để cả quân Thụy Điển và Quân đội Đế quốc La Mã Thần Thánh phá hủy lãnh thổ. Tuyển hầu tước Friedrich Wilhelm vào năm 1640 và nhờ vai trò của xứ Phổ trong cuộc Chiến tranh Ba Mươi năm, ông nhận được vùng Đông Pomerania vào năm 1648. Là vị Tuyển hầu tước Vĩ đại, ông có công lớn đối với đất nước, qua việc xây dựng một bộ máy Chính phủ hữu hiệu và một lực lượng Quân đội tinh nhuệ. Sau khi đánh thắng quân Ba Lan và lấy được đất Đông Phổ Vào năm 1675, ông thân chinh xuất đại binh đại phá tan nát quân xâm lược Thụy Điển – đội quân hùng hậu nhất cõi Âu châu thời bấy giờ – trong trận đánh vang danh tại Fehrbellin, quét sạch quân Thụy Điển ra khỏi đất nước. Quân Brandenburg liên tiếp đánh tan nát quân Thụy Điển như là chẻ tre. Kinh thành Berlin dần trở nên thịnh vượng. Tuyển hầu tước Vĩ đại cũng ban Thánh chỉ cho các tín đồ Huguenot bị vua Pháp là Louis XIV lưu đày sang xứ Phổ mà an cư lập nghiệp.
Trong khi ấy, Sultan Thổ Nhĩ Kỳ là Mehmed IV lại phái tướng sĩ tinh nhụê vây hãm kinh đô Viên vào năm 1683. Hoàng đế Leopold I sợ giặc, một đạo quân Áo vẫn cố cầm cự cho tới khi vua Ba Lan là Jan III Sobieski và một vài Vương hầu Đức kéo đến quét sạch quân Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi kinh đô Viên. Sau khi Tuyển hầu tước Vĩ đại Friedrich Wilhelm I qua đời vào năm 1688, Tuyển hầu tước Friedrich III lên nối ngôi. Tuy không tài năng như cha mình nhưng ông cảm thấy bất mãn với địa vị lãnh chúa của mình. Khi cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha bùng nổ vào năm 1701, ông hứa sẽ hợp binh với Hoàng đế đánh Pháp, nhờ đó Leopold công nhận ông làm Quốc vuơng. Thế là vua Friedrich I của nước Phổ làm lễ gia miện vào năm 1701. Trong cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, liên minh Anh – Áo – Đức đã nhiều lần đánh thắng quân Pháp trong những trận đánh vinh quang. Người kế tục vua Friedrich I, vua Friedrich Wilhelm I là người có tài trị nước và tính khí nóng nảy. Ông gầy dựng một bộ máy Chính phủ hiệu quả cũng như một lực lượng Quân đội tinh nhuệ hạng nhất Âu châu. Nước Phổ khi đó trở thành Nhà nước quân chủ tập quyền, với một nền kinh tế vững mạnh, ngoại thương được mở mang. Vào năm 1715, ba quân hừng hực khí thế lên đường đi đánh quân Thụy Điển do vua Karl XII thân chinh cầm đầu. Cuộc chiến tranh này nhanh chóng chấm dứt với chiến thắng của Quân đội Phổ trong trận đánh lớn tại Stralsund, nhờ đó Phổ lấy được đất đai của Karl V. Trong cuộc Chiến tranh Kế vị Ba Lan, liên minh Áo – Phổ – Nga cũng đập cho mưu đồ bá quyền Ba Lan của Pháp tan tành, trong đó Hoàng thái tử Phổ là Friedrich tỏ ra dũng mãnh phi thường. Sau khi vua cha qua đời vào năm 1740, Friedrich lên nối ngôi báu, tức là ông vua thiên tài Friedrich II Đại Đế. Từ thưở nhỏ, ông đã bị vua cha Friedrich Wilhelm I giáo huấn bằng kỷ luật sắt, giờ đây ông được thừa hưởng một lực lượng hùng binh mãnh tướng, dù quân số ít ỏi. Từ đây, nước Phổ trở nên vang dội vì có vua Friedrich II Đại Đế là vị danh tướng kiệt xuất nhất của thời đại. Đúng lúc đó, Hoàng đế Karl VI qua đời và trước khi mất ông đã ban Thánh chỉ qua đó các Vương hầu người Đức phải thừa nhận con gái ông là Maria Theresia lên làm Nữ hoàng các thuộc quốc Áo của nhà Habsburg. Nhưng Friedrich II Đại Đế lại phản đối chiếu chỉ này. Nhà vua quyết định tìm cách xâm chiếm tỉnh Silesia trù phú của người Áo và vào tháng 12 năm 1740, ông thân chinh đốc xuất đại binh tinh nhuệ tấn công mãnh liệt vào Silesia. Người Bayern và Sachsen cũng được Pháp và Tây Ban Nha hậu thuẫn để “liên Phổ đánh Áo”, mở ra cuộc Chiến tranh Kế vị Áo. Họ lập Tuyển hầu tước xứ Bayern lên làm Hoàng đế Karl VII.
Vua Friedrich II Đại Đế (1712 – 1786) là nhà độc tài sáng suốt, hiểu sâu triết học, có ý chí sắt đá, có tài trị nước và dụng binh đặc biệt xuất sắc. Ông là người hộ vệ của đất Đức thời đó.
Vào năm 1741, vua Friedrich II Đại Đế thân chinh đánh thắng quân Áo trong trận đánh lớn tại Mollwitz, sang năm sau ông lại chiến thắng quân địch trong trận đánh lớn thứ hai tại Chotusitz (1742). Cùng năm đó, nước Phổ rút khỏi cuộc Chiến tranh Kế vị Áo, với niềm vinh quang chiến thắng và chiếm lĩnh được tỉnh Silesia cùng với hạt Glatz. Sau đó cục diện thay đổi khi liên quân Anh – Hanover – Hesse đánh tan nát quân Pháp và đuổi đám bại binh Pháp về vùng Alsace. Quân Sachsen cũng phải theo về với liên minh Anh – Áo trong khi quân Bayern bơ vơ. Trước tình hình đó, vua Friedrich II Đại Đế lại thân hành khởi binh, phát động chiến tranh một lần nữa để cứu vãn ngôi Hoàng đế của Karl VII (1744). Song Karl VII mất sớm và người Bayern làm hòa với Nữ hoàng Áo, quân Phổ cũng phải lui binh, nhưng giữ được Silesia. Vào năm 1745, với tài dụng binh như thần của vua Friedrich II Đại Đế, các chiến binh dũng mãnh Phổ giành chiến thắng như là chẻ tre, với những trận thắng vang danh trước liên quân Áo – Sachsen tại Hohenfriedberg, Soor và Hennersdorf. Vào năm 1744, người Phổ và người Hanover giành quyền kế vị ngai chúa bỏ trống của xứ Đông Friesland, nước Phổ lấy được xứ này nhờ đó họ có được cảng Emden tại Biển Bắc. Không những thế, một đạo quân Phổ còn đập tan nát quân Sachsen bằng một đòn giáng sấm sét tại Kesselsdorf (1745), hủy diệt chí khí chiến đấu của Nữ hoàng nước Áo. Liên minh Phổ – Pháp bị xé bỏ và nước Phổ toàn thắng với Hiệp định Dresden vào năm 1745, người Áo và người Sachsen phải chịu thua. Trong khi Maria Theresia làm Nữ hoàng của các thuộc quốc Áo thì chồng bà lên làm Hoàng đế La Mã Thần thánh Franz I. Vào năm 1748, với Hiệp định Aix-la-Chapelle, Nữ hoàng Maria Theresia hất cẳng được quân Pháp và Tây Ban Nha ra khỏi các lãnh thổ Habsburg, nhưng bà vĩnh viễn mất tỉnh Silesia về tay nước Phổ ngày một lớn mạnh. Do đó, Hiệp định này vẫn không đem lại lợi thế cho người Áo. Phổ trở thành đàn anh của các nước tộc Đức và thoát khỏi ách chư hầu của Áo. Tức giận, Nữ hoàng Maria Theresia thiết lập liên minh với vua Pháp là Louis XV và Nữ hoàng Nga là Elizaveta để chống lại vua Friedrich II Đại Đế. Người Thụy Điển và người Sachsen cũng nhảy vào liên minh.
Nhờ có tài ngoại giao, ông kéo được Anh Quốc và Hanover về phe mình. Do nghĩ rằng liên quân Áo – Nga – Pháp – Sachsen – Thụy Điển đang mưu mô xâm lược đất nước, ông thân chinh khởi đại quân hùng mạnh tiến công xứ Sachsen vào năm 1756, mở ra cuộc Chiến tranh Bảy Năm tàn khốc. Quân Sachsen nhanh chóng thảm bại và một đạo quân Áo kéo đến cứu họ cũng bị Friedrich II Đại Đế đánh tan nát trong trận đánh kịch liệt tại Lobositz. Sang năm 1757, nhà vua tổ chức hành binh thẳng tiến tiến đến xứ Bohemia, nơi đây ông đánh tan tác quân Áo trong trận đánh đẫm máu tại Praha nhưng sau đó quân Áo thắng lớn trong trận đánh ác liệt ở Kolín. Quân Áo, Nga, Thụy Điển và Pháp đều xâm lăng nước Phổ và Bắc Đức, nhưng nhờ có thiên tài quân sự xuất sắc của vua Friedrich II Đại Đế, những chiến binh kỷ cương cao độ của ông quét sạch bóng liên quân Pháp – Áo đông đảo trong trận đánh quyết liệt tại Rossbach (1757), sau đó lại hành binh về Silesia đại phá tan tành quân chủ lực Áo trong trận đánh khốc liệt tại Leuthen. Vào năm 1758, ông cũng đánh tan tác quân Nga trong trận đánh đẫm máu tại Zorndorf, trong khi đó các vị Thống chế Phổ đã đánh đuổi được liên quân Nga – Thụy Điển. Sau đó là những cuộc giằng co khốc liệt, quân Phổ lắm lúc đại bại như tại Kunersdorf (1759) và Landeshut (1760), nhưng vua Friedrich II Đại Đế vẫn giữ được nước và giành những chiến thắng hiển hách tại Liegnitz và Torgau (1760). Ông còn tích cực phòng thủ, và cuối cùng liên quân chống Phổ dần dần tan rã, để rồi ông lại đại thắng như là chẻ tre và Hiệp định Hubertusburg được ký kết vào năm 1763: người Phổ trả tự do cho người Sachsen, nhưng họ giữ vững được tỉnh Silesia. Vậy là vị vua anh dũng Friedrich II Đại Đế chiến thắng cuộc Chiến tranh Bảy Năm và nước Phổ giờ đây hoàn toàn là một liệt cường của toàn cõi châu Âu, hạ nhục Pháp và xóa bỏ mọi hiểm họa đến với đất nước và bảo vệ quyền tự do của dân tộc Đức. Vào năm 1772, nước Phổ mở mang cương thổ đến vùng Tây Phổ, nhờ nhà vua dùng tài năng ngoại giao mà tiến hành cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất cùng với người Áo và người Nga. Sau khi Hoàng đế Franz I qua đời vào năm 1765, con ông là Joseph II lên ngôi Hoàng đế và trị vì các thuộc quốc Áo cùng mẫu hậu Maria Theresia. Nhưng ông chỉ đảm nhiệm việc cai quản hành chính, quân sự và ngoại giao. Ông là vị Hoàng đế trẻ tuổi, ham muốn canh tân Đế quốc trong khi Maria Theresia lại cố thủ với chế độ quân chủ chuyên chế. Ông luôn có tư tưởng chống Phổ nhưng thật tâm mến mộ vị Quân vương nước Phổ.
Trước tham vọng sáp nhập xứ Bayern vào Đế quốc La Mã Thần thánh của Joseph II, nhân dân Đức bất bình và vị anh quân 66 tuổi Friedrich II Đại Đế lại một lần nữa lên lưng ngựa mà đốc xuất ba quân đánh Áo, mở ra cuộc Chiến tranh Kế vị Bayern (1778). Tình hình binh cách lâm vào bế tắc, hai đoàn quân giáp chiến nhau giành khoai tây mang về, cuối cùng người Áo phải ký kết Hiệp định Teschen (1779) qua đó họ phải xóa bỏ hết những kế hoạch sáp nhập xứ Bayern. Vào năm 1780, Joseph II thành lập liên minh với Nga, sau đó, ông lại lập mưu sáp nhập xứ Bayern nhưng Friedrich II Đại Đế phản công bằng việc thành lập một Liên minh vững chắc (Fürstenbund) với các Vương hầu hùng mạnh người Đức (1785), kể cả Kháng Cách lẫn Công giáo làm cho Đế quốc La Mã Thần thánh lung lay và mở ra tương lai cho một nước Đức thống nhất, dù rằng Liên minh này chủ yếu mang lại quyền lợi cho nước Phổ. Những công lao hiển hách của ông – vị Quân vương bảo vệ vùng Bắc Đức – gắn liền với lòng yêu nước của nhân dân. Dưới triều đại của Friedrich II Đại Đế ở Phổ và Joseph II ở Áo, trào lưu Khai Sáng đến với đất Đức. Vua Friedrich II Đại Đế trở thành một nhà độc tài sáng suốt kinh điển, với việc bảo trợ nhiệt huyết tri thức và nghệ thuật. Ông trị vì một cách độc đoán, nhưng trở thành “người công bộc đầu tiên của đất nước. Đến khi ông về cõi vĩnh hằng vào năm 1786, công cuộc dựng xây một nước Phổ mới mẻ đã được hoàn thành và đất nước trở nên vô cùng hùng mạnh. Joseph II cũng là nhà độc tài sáng suốt với hoài bão xóa bỏ chế độ phong kiến từ lâu, tiến hành cải cách sâu rộng, nhưng không được lòng người.
Con đường đi đến quốc gia dân tộc Đức (1806-1871)
Đế quốc La Mã Thần thánh vẫn cứ suy yếu cho đến năm 1806 khi Hoàng đế Pháp là Napoléon Bonaparte xâm chiếm Trung Âu trong các cuộc chiến tranh chinh phục của ông và làm cho kết cấu yếu ớt của đế chế sụp đổ. Vị hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh mà trên thực tế chỉ còn tồn tại một cách hình thức, Franz II, người vừa trở thành hoàng đế của đế quốc Áo đa dân tộc năm 1804, phải thoái vị dưới áp lực của hoàng đế Pháp. Dưới quyền của Napoléon Bonaparte, con số các quốc gia Đức giảm đi rất nhiều do bị sát nhập chung và cũng do là nhiều thành phố đế chế mất quyền độc lập (có thời gian con số các thành phố này lên đến trên 80). Các quốc gia vừa được tổ chức lại này được gọi là Liên minh Rhein (Rheinbund) và phụ thuộc vào Napoléon.
Sau chiến bại của Napoléon, Hội nghị Viên (18 tháng 9 năm 1814 đến 9 tháng 6 năm 1815) khôi phục lại phần lớn các quan hệ thống trị cũ. Nước Đức, giờ đây không có băng kết nối, một phần được tổ chức trong Liên minh Đức (Deutscher Bund), một liên minh lỏng lẻo của 38 quốc gia dưới sự lãnh đạo của Áo. Ngay sau đó Liên minh Thuế quan Đức (Deutscher Zollverein) được thành lập mà trong đó vương quốc Phổ tái vững mạnh là cường quốc chiếm ưu thế.
Cách mạng tháng 3 (1848) tại Berlin
Mang ý tưởng của cuộc Cách mạng Pháp, ngày 18 tháng 10 năm 1817 sinh viên đã tụ họp trong Lễ hội Wartburg để trao đổi ý tưởng; đỉnh cao là việc đốt sách của những tác giả chống lại một quốc gia Đức thí dụ như của Otto von Kotzebue.
Trong lần gặp gỡ lần thứ hai, 30.000 người từ tất cả các tầng lớp quần chúng và từ tất cả các nước gặp nhau trong Lễ hội Hambach. Tại đấy, lần đầu tiên màu cờ Đen-Đỏ-Vàng được phất lên mà sau này trở thành màu cờ quốc gia.
Vào ngày 1 tháng 3 năm 1848, với việc chiếm đóng tòa nhà hội họp của quốc hội bang Baden tại Karlsruhe, cuộc Cách mạng tháng 3 bắt đầu. Cuộc Cách mạng tháng 3 diễn ra trong Liên minh Đức và các tỉnh của Áo và Phổ. Vì những cuộc nổi dậy của nhân dân, nhiều nhà cầm quyền đã phải thoái vị như hầu tước Metternich của Áo, người mà năm 1813 còn tái thiết lập chế độ quân chủ sau Napoléon trong Hội nghị Viên. Dưới áp lực của diễn biến cách mạng tại kinh thành Berlin từ ngày 6 tháng 3 năm 1848, đầu tiên vua nước Phổ là Friedrich Wilhelm IV lui bước nhượng bộ và cải tổ Liên minh Đức. Vào ngày 23 tháng 7 năm 1849, sau khi Quân đội Phổ chiếm lĩnh thành phố Rastatt qua một cuộc chiến đấu ác liệt, Cách mạng Baden và Cách mạng tháng 3 bị chấm dứt.
Ngay sau cuộc Cách mạng tháng 3 mang tính tự do và quốc gia thất bại đã có va chạm giữa vương quốc Phổ với thế lực lớn Áo về quyền lực lãnh đạo trong Liên minh Đức cũng như trong châu Âu, dẫn đến cuộc Chiến tranh Áo – Phổ năm 1866. Bằng một đòn giáng sấm sét, những chiến binh Phổ tinh nhuệ đập tan nát quân Áo tại Königgrätz. Sau khi nước Phổ dành phần thắng trong cuộc chiến tranh này Liên minh Đức tan rã, nước Phổ thôn tính các đối thủ trong chiến tranh tại Bắc Đức và vì thế giảm con số của các quốc gia Đức.
Đế quốc Đức (1871–1918)
Bản đồ nước Đức 1871-1918
Việc thành lập Liên minh Bắc Đức (Norddeutscher Bund) dưới sự lãnh đạo của Phổ tiếp theo sau đó bắt đầu cho cái gọi là Giải pháp tiểu Đức (Kleindeutsche Lösung). Theo ý muốn của Otto von Bismarck, giải pháp này có mục tiêu thống nhất những quốc gia Đức riêng lẻ dưới sự độc quyền lãnh đạo của Phổ và không có sự tham gia của thế lực lớn thời bấy giờ là Áo.
Đế chế Đức được tuyên bố thành lập ở Versailles vào ngày 18 tháng 1 năm 1871 sau khi nước Phổ và các quốc gia Đức đồng minh chiến thắng cuộc chiến tranh chống Pháp 1870/1871, dưới sự nỗ lực của Otto von Bismarck, là thủ tướng đầu tiên của Đế chế Đức, người được gọi là “Thủ tướng Sắt thép”. Vua Wilhelm I lên làm Hoàng đế nước Đức.
Khuynh hướng chính mang tính bảo thủ-phản dân chủ của ông đã ngăn cản việc thống nhất đế chế dưới những điều kiện dân chủ và tạo điều kiện cho việc chủ nghĩa quốc gia và dân chủ xa lạ với nhau tại Đức. Từ khi thành lập đế chế, chính sách đối ngoại hung hãn mang tính chiến tranh của ông thay đổi trở thành một chính sách liên minh mà dựa trên sự cô lập Pháp và trung hòa của nước Đức đã lập nên một hệ thống liên minh trong châu Âu, bảo đảm vị trí bán độc quyền lãnh đạo của đế chế và hòa bình trong châu Âu. Trong “Năm Ba Hoàng đế” (1888) Wilhelm II lên nắm quyền, ép buộc Bismarck từ chức năm 1890 và thay đổi chính sách đối ngoại theo hướng của một chính sách cường quốc thế giới lớn đối nghịch. Vì đường hướng mới này mà đế quốc đã tự cô lập mình và một hệ liên minh mới thành hình. Cuộc mưu sát Hoàng thái tử nước Áo Franz Ferdinand làm bùng nổ cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Trong những trận đánh khốc liệt tại Verdun và Somme, Quân đội Đức đã giáng cho quân Pháp khánh kiệt tả tơi. Tuy nhiên, quân Anh vẫn còn tiếp tục nỗ lực chiến tranh chống Đức.
Trích nguồn: Wikipedia